Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Doanh nhân 3.0

Cuộc khủng hoảng kinh tế, không chỉ gây ra những tổn thất, mà còn mang đến một giá trị vô hình rất lớn cho cộng đồng doanh nhân Việt Nam. Cái “được” vô hình này lớn không kém gì so với những cái “mất” hết sức hữu hình mà mọi người đều đã nhận ra. Đó chính là sự thức tỉnh ở nhiều doanh nhân Việt Nam, rằng: một kỷ nguyên mới trong kinh doanh đã bắt đầu, kỷ nguyên mới đòi hỏi phải có những con người, với khát vọng mới, năng lực mới và văn hóa mới. Những con người đó, có thể được gọi là “thế hệ doanh nhân 3.0”.
Từ cuộc khủng hoảng năng lực kinh doanh
Trên khắp thế giới, không ai còn xa lạ trước những thống kê về số lao động mất việc, số hợp đồng bị hủy, số công ty đóng cửa… Khi mà ngay cả những người khổng lồ ở phố Wall cũng phải gục ngã, thì việc hiệu ứng toàn cầu đánh tan cái “chủ nghĩa kinh nghiệm” vốn rất phổ biến trong suốt chặng đường kinh doanh của người Việt cũng không mấy bất ngờ.
Tạp chí dành cho doanh nhân toàn cầu Forbes vừa đăng tải một bài viết về năng lực của nhà lãnh đạo doanh nghiệp thời nay với những trích đoạn đáng suy ngẫm: “Tất cả chúng ta đều xây dựng sự nghiệp của mình trong giai đoạn mà tăng trưởng đã diễn ra khắp mọi nơi. Bản năng, kỹ năng và kinh nghiệm của chúng ta được mài giũa trong bối cảnh mà tăng trưởng toàn cầu được xem như là chuyện đương nhiên vậy. Nhưng giờ đây, tất cả những thứ đó giúp ích gì được cho chúng ta trong thời đại của sụp đổ tài chính, suy thoái và bất ổn hiện nay? Mọi người ở các cấp lãnh đạo đều nhận ra rằng, họ đang ở trong một lãnh địa mà chưa ai từng đặt chân tới, cho dù họ đang cố khoác lên mình khuôn mặt của những người dũng cảm và tự tin nhất”.
Thật ra không cần đến nhận định của tiến sĩ Saj-nicole Joni, tác giả của bài viết trên, mà chính chúng ta cũng có thể tự nhận ra rằng các năng lực lãnh đạo hiện nay của doanh nhân là chưa đáp ứng kịp nhu cầu của thời cuộc. Chúng ta cuống cuồng tìm mọi cách đáo hạn nợ ngân hàng khi bất động sản không thể giải ngân. Chúng ta phập phồng khi giá vàng và tỷ giá ngoại tệ lên xuống không theo bất kỳ dự đoán nào. Và chúng ta đôi khi bất lực nhìn thị phần của mình bị xâm lấn trước sự càn quét của hàng Trung Quốc và của các tập đoàn nước ngoài…
Việc kinh doanh trở nên khó khăn và nhiều thách thức hơn bao giờ hết. Cuộc đua tranh toàn cầu khốc liệt dần lên, thậm chí mọi người đang phải đua tranh toàn cầu ngay trong “nhà” của mình.
Chính vì thế, “lột xác” để đi lên chính là việc sống còn. Doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ phải tìm cách vượt qua khủng hoảng kinh tế-tài chính hiện nay, mà còn phải biết cách vượt qua khủng hoảng về năng lực kinh doanh của chính mình. Đó cũng là hành trình bước vào một “thế giới kinh doanh” và một “thời đại kinh doanh” hoàn toàn đổi khác.
Nhìn lại lịch sử kinh thương và thăng trầm của thế hệ 1.0, 2.0
Việt Nam không có một lịch sử kinh thương lâu đời, bởi người Việt xưa xem kinh doanh là việc không đáng trọng. Mãi đến đầu thế kỷ 20, một khúc quanh rực rỡ của kinh thương mới được vẽ nên bởi các doanh nhân tiền bối như Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô… Nhưng rồi, dù tài năng và khát vọng có thừa, thế hệ doanh nhân “tiền bối” này cũng phải sớm dừng bước theo dòng chảy của thế sự.
Rồi một thời gian rất dài tiếp theo, lịch sử kinh thương của ta là những trang sử khá buồn tẻ và đơn điệu. Cũng có một vài điểm đáng chú ý của kinh doanh ở khu vực miền Nam, nhưng nhìn chung vẫn còn lẻ loi bên dòng chảy rộng lớn của kinh thương thế giới... Tiếp đó, kinh doanh gần như không có chỗ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và bảo hộ mậu dịch...
Cho đến khi “đổi mới”, cho đến khi Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (năm 1990) chính thức được ban hành, và Luật Doanh nghiệp nhà nước được sửa đổi... thì những mạch ngầm của dòng chảy kinh thương Việt Nam mới bắt đầu được khơi gợi...
Chính trong bối cảnh này, những doanh nhân thế hệ 1.0 đầu tiên của lịch sử kinh thương thời kỳ đổi mới đã ra đời. Phần đông trong số họ ra sức làm ăn để kiếm cơm, kiếm tiền và làm giàu, mang lại hạnh phúc cho mình và tạo dựng sự nghiệp riêng. Nhưng chính sự bộc phát này cũng tạo nên những hạn chế nhất định trong tính cách của đa số doanh nhân 1.0: họ chưa quan tâm nhiều đến trách nhiệm xã hội hay đạo đức kinh doanh, và thường chỉ quanh quẩn làm ăn đơn lẻ trong nước và chủ yếu là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau.
Giai đoạn tiếp theo là một giai đoạn với hàng loạt sự kiện mang tính chất “cột mốc” đối với giới doanh thương Việt Nam. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp (năm 1999) với một tư tưởng cách mạng “người dân được làm những gì mà pháp luật không cấm”, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (năm 2005) đã chọn ngày 13-10 hàng năm làm ngày tôn vinh doanh nhân, Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) với tinh thần “Đảng viên được làm kinh tế tư nhân”... đã mang đến làn gió “tự do kinh doanh” tươi mới cho người dân. Có thời gian, chỉ riêng TPHCM, mỗi tuần, lại ra đời thêm hơn 400 doanh nghiệp mới.
Và cũng trong bối cảnh đó, cùng với sự gia nhập WTO, với sự xuất hiện của những luồng tri thức kinh doanh toàn cầu vào Việt Nam, với sự tham gia thị trường của những tập đoàn đa quốc gia, sự trở về cùng chất xám và khát vọng cống hiến của những người Việt xa quê; những doanh nhân Việt Nam uy tín hơn, có tâm và có tầm hơn đã xuất hiện. Đây có thể gọi là thế hệ doanh nhân 2.0.
Thế hệ này, bao gồm những doanh nhân trưởng thành từ thế hệ 1.0 và những doanh nhân mới, đã thực sự vẽ nên chân dung của những người chủ nhân của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ sôi động nhất. Họ đã hình thành một giới riêng, chứ không còn là những nhóm người đơn lẻ trong xã hội. Một lực lượng doanh nhân đã bắt đầu trỗi dậy và nhiều doanh nhân trong thế hệ này đã cùng chia sẻ sứ mệnh: kiếm tiền bằng cách phục vụ xã hội và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Môi trường kinh doanh của thế hệ này cũng xuất hiện sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn giữa các đối tượng vận hành trong cùng một lãnh thổ và bắt đầu có sự phát triển mạnh mẽ hơn của yếu tố quốc tế hóa trong giao thương.
Cùng với thành công này, có rất nhiều doanh nhân thế hệ 2.0 đã được xã hội tôn vinh vì những đóng góp thiết thực của họ cho sự phát triển chung của kinh tế đất nước; nhưng cũng không ít người đã bị đốn ngã hoàn toàn bởi cuộc khủng hoảng hiện nay.
Chính vì vậy, hàng loạt câu hỏi đã được đặt ra: Đâu là năng lực cốt lõi của bản thân mỗi doanh nhân và doanh nghiệp ngoài sự đa dạng hóa kinh doanh một cách thiếu định hướng? Đâu là thế mạnh thực sự khi các doanh nghiệp lao vào chứng khoán và bất động sản…? Đâu là nỗ lực nghiên cứu phát triển sản phẩm để đáp ứng nhu cầu và giải quyết vấn đề của xã hội của mỗi doanh nghiệp? Đâu là năng lực cạnh tranh của công ty trong môi trường bình đẳng với thế giới? Đâu là những giá trị nền tảng của một doanh nghiệp lớn và trường tồn?...
Đi tìm “doanh nhân 3.0”
Những tư tưởng của thời cuộc và sự thay đổi của bối cảnh xã hội đã hình thành nên những đặc tính rất cơ bản của mỗi thế hệ doanh nhân. Và chính cuộc khủng hoảng hiện nay, cùng bối cảnh hội nhập sâu rộng hơn về nhiều mặt của Việt Nam với thế giới cũng đã định danh những đặc tính cơ bản cho thế hệ doanh nhân của ngày mai: doanh nhân 3.0.
Đó là những con người có khát vọng mới - khát vọng đua tranh mạnh mẽ cùng thế giới, dù quy mô của doanh nghiệp là lớn hay chỉ nhỏ gọn trong phạm vi gia đình, dù là đua tranh ở bên ngoài đất nước hay đua tranh với thế giới ngay trong “nhà” của mình, chứ không chỉ là đua tranh giữa các doanh nhân Việt Nam với nhau. Đó còn là khát vọng dẹp bỏ những hình ảnh “doanh nhân Việt Nam xấu xí” mà thay vào đó là khát vọng xây dựng hình ảnh mới đẹp hơn cho cả cộng đồng doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Doanh nhân 3.0 là những con người có năng lực mới - năng lực quản lý và lãnh đạo mới để có thể thực hiện được khát vọng mới nói trên. Đó là những doanh nhân: có khả năng nhìn xa (không chỉ 2 năm, 5 năm, mà có thể là 20 năm, 30 năm..., thậm chí là xa hơn) và trông rộng (không chỉ giới hạn ở tầm nhìn Việt Nam, mà còn có khả năng nhìn thấy cơ hội ở khắp nơi trên thế giới); có khả năng sống một cách đàng hoàng và làm việc thành công cùng những con người với đủ màu da, quốc tịch, chủng tộc, cũng như tôn giáo...
Và tất nhiên, doanh nhân 3.0 không thể không mang trong mình những giá trị mới, những phẩm chất, văn hóa mới để thực hiện khát vọng mới của mình. Những giá trị mới này, không nằm ngoài nền tảng đạo đức kinh doanh mà ông cha đã dày công vun đắp, không nằm ngoài tinh thần phục vụ xã hội mà thế giới tôn vinh, và cũng không nằm ngoài cái “đạo kinh doanh” mà thế hệ doanh nhân 2.0 đã bắt đầu nghĩ đến và tạo dựng. Những giá trị nền tảng đó có thể là: tín thực, tiên phong, khát vọng, dấn thân, tôn trọng…
Vậy, ai sẽ là những người tham gia vào thế hệ doanh nhân 3.0? Đó hẳn là thế hệ doanh nhân trẻ mới được trui rèn và những doanh nhân hiện nay biết cách tự tái tạo lại bản thân mình, tự làm mới mình bằng khát vọng mới, năng lực mới và giá trị mới, trên nền tảng kế thừa những gì mà thế hệ doanh nhân 2.0 đã bước đầu tạo dựng.
Xã hội đang chờ đợi sự “trở mình” của những doanh nhân muốn khẳng định mình trong thời đại mới. Xã hội đang mong mỏi sự xuất hiện của những niềm tự hào quốc gia có thể ca khúc khải hoàn trong cuộc đua tranh toàn cầu. Xã hội đang sẵn sàng tôn vinh những người con người dấn thân vào sự nghiệp kinh thương, để tạo dựng những giá trị vững chắc và trường tồn cho chính mình, cho dân tộc mình và mang nhiều giá trị cho thế giới.
Khủng hoảng - cũng là tiếng chuông báo hiệu thời đại mới đã vang lên. Cách tốt nhất để vượt qua khó khăn là nhìn thấy cơ hội, và cách hay nhất để thoát khỏi bế tắc là nhận ra con đường dài phía trước. Một nền kinh doanh mới đang chờ đợi chúng ta. Việt Nam đang thực sự cần những doanh nhân 3.0 dẫn dắt những doanh nghiệp 3.0 trong hành trình chinh phục nền kinh doanh 3.0. Đó sẽ là những con người lật lịch sử kinh thương Việt Nam sang một trang mới, và viết nên những dòng ghi chép hào sảng cho đời sau.
Giản Tư TrungHiệu trưởng trường Doanh Nhân PACE

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

Tìm lại Minh triết Việt

Minh triết là gì?
Từ thủa bình minh của nhân loại, con người, với sự sắp xếp của tạo hóa, như là một thực thể đặc biệt giữa nhiên giới, vạn vật. Trong thế giới tự nhiên với sự đa dạng của nhiều hệ động thực vật thì con người, với sự tổng hòa của ba yếu tố: Thể chất, trí tuệ (sự hiểu biết, thông minh) và tâm giới (tâm linh) đã dần ở vào một vị thế năng động giữa tự nhiên. Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, tuy cũng đều có sự phát triển chung trong đời sống xã hội nhưng với các điều kiện sống, các yếu tố giống nòi khác nhau nên con người cũng có sự phát triển theo một số xu hướng nhất định.
- Thứ nhất, một số nhóm người phát triển thiên về thể chất. Cuộc sống của họ sống dựa nhiều vào sức mạnh cơ bắp, thiên về trồng trọt, săn bắt, du canh, sống dựa theo thế giới tự nhiên. Đặc điểm này xuất hiện nhiều tại châu Phi.
- Thứ hai, một số nhóm người phát triển dựa vào sự hiểu biết, sự thông minh. Họ phát triển cuộc sống dựa trên sức mạnh của trí tuệ, của tư duy triết học, tư duy lý trí. Đại diện của xu hướng này là phương Tây với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật mà thành quả của nó dường như đang làm choáng ngợp nhân loại. Với nền triết học, những triết gia, với xu thế hướng ngoại, Tây phương đã phát triển tư duy lý trí, tư duy logic toán học rạch ròi, tư duy vỏ não, phát triển kiến thức, hiểu biết hướng đến chiếm lĩnh thiên nhiên và chinh phục vũ trụ.
- Thứ ba, một số nhóm người đời sống thiên về tâm giới (tâm linh) mà đại biểu chính là phương Đông. Phương Đông không có triết học, chỉ có minh triết, có đạo học với những nhà hiền triết, bậc thánh nhân, bậc đạo sự. Và minh triết chính là những tư tưởng đạo học có được từ tư duy trực giác tổng hợp, tư duy bằng tâm; mang tính hướng nội, thiên về sự chiêm nghiệm trên bình diện tâm, trí, tuệ. Những tư tưởng này có được từ sự quán sát thực tại trong thể trôi chảy, dịch biến, tan hòa và hướng đến việc huân tập nội lực tâm linh để sống hài hòa với nhiên giới, vạn vật.
  Ngày nay, khi sống trong một thế giới phẳng, thế giới của công nghệ thông tin, của toàn cầu hóa, chúng ta đã có thể nhìn nhận, đánh giá chân thực đời sống của mỗi người, của mỗi cộng đồng ở nhiều nơi. Sức khỏe, sức mạnh thể chất là căn bản với con người, nhưng sức mạnh thể chất không thể đuổi kịp sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật. Đến lượt mình, khoa học kỹ thuật - Biểu hiện là văn minh đô thị và sự bủng nổ về công nghệ, với sự hào nhoáng và hiện đại - đã khai thác, cưỡng đoạt thiên nhiên vô tội vạ để đáp ứng mọi nhu cầu thiết yếu lẫn xa xỉ của con người và để lại đằng sau nhiều bất ổn của môi trường, khí hậu, bệnh tật, chiến tranh, chạy đua vũ trang, khủng bố… Sự càn quét của những bất ổn này làm lu mờ luôn cả những tư tưởng minh triết, mà đại biểu là nền minh triết phương Đông, vốn khó có thể tồn tại trong một thế giới đầy rẫy dục vọng, bế tắc, thực dụng và vô cảm. Con người từ sơ khai đã luôn gắn với hai giá trị vật chất và tinh thần. Với nhận thức chân thực về những xu hướng, những bất ổn và nguy cơ trong đời trong sống hiện tại trên đây thì ngoài việc theo đuổi đời sống vật chất, các giá trị tinh thần, cái đẹp của nội tâm có được từ đời sống minh triết cần phải được nhìn nhận lại để đi đến một cuộc sống hài hòa, cân bằng cho con người. Trọng tâm vẫn là con người nhưng trật tự tư duy cần xác lập lại, đó là con người hướng nội. Ngoài việc đảm bảo sức mạnh thể chất, cần chú trọng đến việc huân tập nội lực tâm giới để có sức mạnh minh triết (am hiểu sâu sắc văn hóanội tâm trầm tĩnh sáng suốt) rồi mới phát triển đa dạng, đồng bộ các yếu tố thuộc về tư duy lý tính, tư duy logic, tư duy sáng tạo, các chuyên ngành kinh tế, khoa học công nghệ, xã hội… Tư duy minh triết cần phải đi đầu, cần dẫn dắt tư duy thuộc về lý trí, triết học, khoa học, xã hội.

Minh triết Việt
  Trong vòng xoay của thời cuộc, trước thực tại chung của hội nhập kinh tế, của toàn cầu hóa, Việt Nam – Một quốc gia còn nghèo nàn, đang khát khao văn minh tiến bộ - cũng đang trong sự biến đổi với quy mô tiểu toàn cầu ở hầu hết các mặt của xã hội. Lối sống, nếp nghĩ chung đang thay đổi từ quy mô cộng đồng đến mỗi gia đình, đến từng cá nhân; từ thành thị đến nông thôn, từ tầng lớp trí thức đến tầng lớp bình dân… Sự bất ổn trong tư tưởng, lối sống đã đến mức báo động mà nhiều bậc trí giả, thức giả có trách nhiệm, có ưu tư đã gióng lên những phong trào khôi phục, giữ gìn bản sắc văn hóa như: Làng văn hóa, gia đình văn hóa, tuyến phố văn hóa, doanh nhân văn hóa…
  Việt Nam là một đất nước đặc biệt. Điều này đã minh chứng bởi lịch sử, văn hóa, văn hiến của dân tộc. Từ thời Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân – Âu Cơ, thời đại Hùng Vương với văn hóa Đông Sơn của nền văn minh sông Hồng, trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, thời Lý Trần rực rỡ huy hoàng, cho đến những cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp, chống Mỹ gần đây … Suốt chiều dài lịch sử như vậy, đó phải là bản sắc văn hóa của dân tộc, là nền tảng tâm linh ngàn đời đã giúp dân tộc Việt không bị đồng hóa bởi các thế lực ngoại bang mà đứng vững trước dòng chảy thịnh suy của thời cuộc. Cái duy trì nguồn sinh lực Việt đó chính là nền tảng của tư tưởng minh triết, minh triết Việt.
  Cùng chung dòng chảy của Minh triết phương Đông, minh triết Việt là sự hỗn dung, tan hòa của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Nho, Phật, Lão) cùng với phong tục tập quán, lễ hội dân gian, các ngành nghề truyền thống… Với những nhìn nhận về minh triết trong tương quan với thể chất, trí tuệ ở trên cũng như tương quan giữa vật chất và tinh thần, đã đến lúc người Việt cần xây dựng lại một quan điểm, một lối sống mới, một đời sống minh triết. Đó là một lối sống vừa đủ về vật chất, thân thiện với thiên nhiên, lành mạnh về thể chất cùng với một nội lực tinh thần dựa trên sự thâm hiểu những giá trị của minh triết Việt. Đó chính là thâm hiểu bản sắc văn hóa cao đẹpnội lực tâm linh hoàn mỹ. Một bản sắc văn hóa nằm ở lối sống hài hòa, hiền thiện, chân thật, nghĩa tình, hiểu biết, đầy dũng mãnh, khát vọng và cũng đầy tình yêu đất nước con người… Một đời sống tâm linh thanh bình và yên ổn. Một hồn sống Việt có được từ tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật giáo, Khổng Mạnh và Lão Trang) và cái tinh hoa bản sắc dân tộc nằm trong lễ hội dân gian, thơ ca, thư pháp, nhiếp ảnh, hội họa, các ngành nghề thủ công mỹ nghệ, trang phục, ẩm thực .v.v